Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2011

Bàn tay ánh sáng

Toàn bộ nội dung cuốn sách Bàn Tay Ánh Sáng (tải tại đây)

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

I - NHÂN ĐIỆN HAY NHƠN ĐIỆN ?




Nhân Điện thật & Nhân Điện giả

Gần đây đã có những thơ từ và bài báo nói lên sự tác hại của nhân điện do một số thầy nào đó tự nhận là thầy nhân điện đi mở luân xa và trị bịnh qua các luân xa và đã làm cho một vài bệnh nhân tẩu hỏa nhập ma. Cách mở Luân xa và trị bịnh của pháp môn Nhân Điện Thầy Tiến sĩ Lương Minh Đáng dạy cũng khác với cách mở Luân xa và trị bịnh của những ai đó giả danh là thầy nhân điện dùng nhân điện tức năng lượng của chính mình tức cái bản ngã của mình mà hành và vì thế mà đã tạo ra nhiều điều không tốt đến cho nhiều gia đình. Như chúng ta đã biết, có một số người hay làm đồ giả, hay COPY đồ thật, hay mạo nhận để trục danh lợi tình và đã làm mang tai tiếng và ảnh hưởng không tốt cho những nơi giới thiệu món hàng thật. Hy vọng bài viết sau đây (được trích ra phần lớn từ bài luận án của một học viên trong nghành Nhân Điện của Thầy Lương Minh Đáng trình vào năm 1999 cho Trường Đại Học Colombo để lấy bằng MD về Alternative Medecine) sẽ giúp cho những ai chưa hiểu rõ hay hiểu lầm về pháp môn “NHÂN ĐIỆN” của Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng với pháp môn nhân điện giả hiệu.

** Học viên Nhân Điện của Thầy Lương Minh Đáng chỉ được khai mở sáu (6) Luân Xa mà thôi không giống như thầy nhân điện nào đó mà mở bảy (7) luân xa một lúc.

















Hình Cô Theresa Thu Thuỷ chụp ở Ấn Độ năm 2009 { người thừa kế sự nghiệp của THẦY LƯƠNG MINH ĐÁNG và được rất nhiều người yêu mến} chú thích ngày:12 /04 /2010

-------------------------------------------
I - NHÂN ĐIỆN HAY NHƠN ĐIỆN ?

Thông thường mà hiểu, thì hai chữ “Nhân Điện” dùng để nói về điện lực trong bản thể con người (human energy), có khi còn được gọi là Năng Lực (prana energy), hay Linh Thể Lực (etheric energy). Nếu hiểu theo ý nghĩa như trên thì chữ dùng cho đúng phải là Nhơn Điện.

Lối chừng nhiều triệu năm về trước, khi nhơn loại chưa bị lệ thuộc nhiều vào lực từ trường của trái đất, thân xác con người được cấu tạo bởi loại tế bào nhẹ nên kinh mạch họ rất thông thương, thân thể họ rất tráng kiện. Nhờ vậy mà họ có được một năng lực nhơn điện rất dồi dào, giúp họ sống lâu tùy ý và đạt được nhiều huyền năng.

Từ từ thân xác con người trở nên nặng trược hơn vì tham danh, lợi, tình và dần dần con người cũng mất đi các khả năng huyên vi, thiên môn trên đầu bị đóng nên phần Hồn không thể ra vào được như trước nữa, con người càng ngày càng trở nên tăm tối hơn.

Muốn có trở lại các khả năng như xưa con người phải tu hành nhiều kiếp để khai thông trở lại các huyệt đạo trong bản thể. Huyệt đạo thì lớn có, nhỏ có, và nếu một người được khai thông 7 đại huyệt chánh và 36 đại huyệt phụ quan trọng trong bản thể thì người đó sẽ có một quyền năng đặc biệt và một sự thanh nhẹ vô biên.

Ngày nay người ta gọi các đại huyệt ấy là Luân Xa, Tây phương dùng nguyên chữ Sanskrit gọi là Chakras. Trong bài này, chúng tôi chỉ nói và đề cập đến 7 Luân xa chánh mà thôi.

1.1 Nhân Điên với ý nghĩa là Cội Nguồn.

Theo tư tưởng Đông phương thì vạn vật đồng nhất lý; cái lý ấy là cái lý Thái Cực, cái lý của Âm Dương. Từ con người cho đến thú vật, côn trùng, kim thạch và thảo mộc đều được cấu tạo bởi một nguyên tố giống nhau gọi là Thái Cực gồm điện Âm và điện Dương. Tây phương cũng đã tìm gần đến nơi qua thuyết ion và có thể thấy được sự chuyển động của Âm Dương qua luồng điện. Chính nhờ sự chuyển động này mà vạn vật đều có sự sống. Con người, thú vật và côn trùng thì có luồng điện linh động, mạnh. Kim khí, vì ít linh động hơn, cần một lực mạnh (như máy điện hay pin) chạy qua thì nó mới dẫn diện, tỏa nhiệt và phóng quang. Thảo mộc thì khi còn xanh là lúc luồng điện hiện diện, khi khô héo là trạng thái mất điện. Đất là loại không linh động và có luồng điện quá thấp, nền văn minh nhơn loại chưa đo được sự rung động hay chấn động lực của loại này; nhưng tất cả dù mạnh hay yếu đều có một năng lượng riêng mà chúng ta có thể gọi là “Điện Động”. Khi vật chất của vạn lý hủy hoại thì luồng điện động mất đi nhưng không hẳn là mất đi thật sự mà nó chỉ chuyển thể sang luồng “Điện Tĩnh”. Con người và thú vật vì khá linh động nên khi mất đi chúng ta có khi thấy được luồng điện tĩnh còn được gọi là phần Hồn.

Tóm lại, dù điện động hay điện tĩnh thì cũng là nguồn gốc của sự vật, nên chúng ta có thể nói Điện là cái Nhân lúc nào cũng hằng hửu và đem lại sự sống cho muôn loài vạn vật.

1.2 Nhân Điện với ý nghĩa là Lòng Nhân từ, là Tình Thương.

Nếu ta đem chiết tự ra hai chữ Nhân Điện viết theo chữ Nho thì :

•Gồm bên trái là chữ nhơn _____ được viết dựng đứng lên _____ để tượng trưng cho con người chuyển mình đứng dậy. Sát cạnh chữ nhơn, bên phải, là chữ Nhị có nghĩa là hai, hai gạch đó có thể tượng trưng cho Âm và Dương. Thành ra chữ Nhân với nghĩa là Lòng Từ, là Tình Thương có chứa đựng trong đó cái nguyên lý của Trời Đất tức Âm Dương vậy.
•Gồm bên phải chữ Điện ______ được viết như một đường dây nối 7 gạch ngang từ trên cao xuống. Dựïa vào đó chúng ta có thể nói người xưa đã hiểu biết được là nếu 7 Đại Huyệt dọc theo xương sống ta được khai mở rộng (gạch ngang) thì chúng ta có thể thu hút được luồng điện từ trên cao xuống nối với luồng điện trái đất. Và như thế thì nguồn gốc của Điện là sự hòa lẫn của Dương điện từ bên trên xuống với Âm điện ở trái đất.
Vậy sau khi chiết tự hai chữ Nhân Điện ra như trên, chúng ta có thể đọc được ý nghĩa của Người Xưa để lại cho nhơn gian là :

“ Khi con người chuyển mình đứng dậy tự cách mạng bản thân, học cái Lý của Trời Đất (Thái Cực, Âm Dương) thì sẽ hưởng được hay câu thông được với cái Luồng Điển lúc ban đầu, từ trên đưa xuống, và cái Lý Bên Trên đem xuống là Tâm Điển, là Nhân Từ, là Tình Thương Đại Đồng vậy ”.

Tóm lại, qua những ý nghĩa là :

•Luồng nhơn điện nơi con người
•Cái gốc của vạn vật
•Tình thương của Trời Đất
Chúng ta thấy hội tụ được một điểm mà danh từ bên khoa học gọi là Điện (electric), danh từ bên tu học gọi là Điển hay Linh Thể Nhiệm Mầu (etheric body), Siêu-Giác, và cũng là Hào Quang (Aura). Nó có cái tính chất Trường Sinh Bất Diệt của nó. Nếu trường sinh mà chưa phải là bất tử thì đó là sức sống của con người; nhưng nếu trường sinh mà có nghĩa là bất tử thì chỉ có Điện tức Điển Quang của Vũ Trụ, nguồn Năng Lượng Vô Tận, đi ra là Âm Dương, đi về lại Thái Cực, không bao giờ biến mất được; mà con người và vũ trụ đồng nhất lý thì chắc chắn là Ngành Khoa Học mới và tương lai được gọi là Trường Sinh Học Nhân Điện phải được phát triển nhờ nhơn thân tức con người.

1.3 Nhân Điện và Nhơn thân

Mặc dù được gọi bằng nhiều ngôn từ khác nhau như Linh Thể Nhiệm Mầu, hay Nhơn Điện hay Khí Công, Nội Lực, Khí Lực…. thì tựu trung có thể nói đây là một loại Năng Lượng được cấu tạo bởi Thiên Tâm lực và Nhơn Tâm Lực mà có. Năng lượng này có cái yếu tố huyền bí mà bất cứ loại năng lượng nào dưới thế gian này cũng không thể so sánh được. Đó là yếu tố “Tình Thương”, một tình thương vô biên, vô vụ lợi, như Đấng Sáng Tạo thương muôn loài vạn vật. Một khi được khai mở luân xa mà tâm chưa được cởi mở, lòng Từ Bi Bác Ái chưa phát triển nhiều, thì cũng không ích lợi cho đời lắm. Mặc dù có thu hút được năng lượng mạnh cỡ nào đi nữa mà sanh tâm hướng hạ thì năng lượng này cũng sẽ giảm đi, chưa nói đến mất hẳn khả năng thu hút năng lượng nếu hành động sái quấy.

Theo suy luận trên, thì Nhân Điện là Điện hay Năng Lượng phát xuất từ Nhân Từ hay Lòng Từ hay Tình Thương.

II - PHÁP MÔN TRƯỜNG SINH HỌC NHÂN ĐIỆN
(Founder : Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng)

- Môn sinh sau khi hoàn tất cấp 1 sẽ được khai mở 6 Luân xa (xem hình vị trí các Luân xa) 30% và được hướng dẫn thiền định, tịnh tâm hít thở nhằm mục đích và thu hút năng lượng vũ trụ qua các Luân Xa đã được khai thông. Ở cấp này, môn sinh tập làm quen để tìm hiểu về cách xử dụng năng lượng vũ trụ trong vấn đề trị bệnh trong phạm vi tiểu gia đình (chồng hay vợ và một đứa con dưới 12 tuổi) vì năng lượng thu hút vào rất ít.

Kinh Nghiệm cá nhân: Sau 3 ngày đầu tiên tham dự lớp học (năm 1989) và vừa mới chỉ được khai mở có 3 luân xa, chúng tôi đã có dịp thử nghiệm xử dụng năng lượng vũ trụ để trị bệnh nhức đầu cho con chúngï tôi, và điều làm tôi ngạc nhiên là sau 5 phút chữa trị thì cơn nhức đầu tan biến mất. Ngay lúc ấy tôi rất phấn khởi vì hiệu quả của phương pháp và hiểu được rằng năng lượng thu phát từ trường của môn sinh tùy thuộc vào Tâm trạng của môn sinh. Như trường hợp trị cơn nhức đầu nêu trên, vì lòng thương, muốn đứa con dứt cơn đau liền mà chúng tôi đã chú tâm truyền tất cả năng lượng mà chúng tôi đã thu nhập được trước đó, qua vài phút thiền tịnh. Năng lượng ấy đã khai thông được sự tắc nghẽn của thần kinh hệ, giúp cho não bộ sau đó được thư giãn và cơn nhức đầu tan biến.

- Ở cấp 2, môn sinh sẽ được khai mở 6 Luân xa 60%. Vì khả năng thu nhận năng lượng vũ trụ đượïc dồi dào hơn, nên môn sinh có thể chữa tối đa 20 người mỗi ngày, bất cứ bệnh gì trừ 4 bệnh sau : AIDS, Ung thư máu, Siêu vi trùng và Bệnh Thần Kinh. Ở cấp này, môn sinh có cơ hội thực tập mở rộng thêm Lòng Từ và sự hiểu biết về tác dụng của nhân điện trên các luân xa qua công trình chữa trị cho các bệnh nhân.

- Ở cấp thứ 3, môn sinh sẽ được khai mở 6 Luân xa 100% và khả năng trị bệnh không còn bị giới hạn nữa về số người cũng như về bệnh trạng, kể cả các bệnh trong lãnh vực huyền bí như Thư, Bùa Ngãi,v.v…Ngoài ra, môn sinh còn được hướng dẫn phương pháp lọc máu.

Vì đã có dịp mở Tâm Từ Bi ở cấp 1 và 2, nay môn sinh được thêm cơ hội mở rộng tâm ấy bằng cách dùng Năng lượng vô tận của Vũ trụ để giúp đỡ mọi người trong cơn đau yếu, có lại được sức khỏe bình thường.

- Ở những cấp sau đó như cấp 4, cấp 5 và cấp 6, môn sinh được hướng dẫn xử dụng Luân xa 6 nhiều hơn và nhanh hơn trong lãnh vực trị bệnh ở gần cũng như đằng xa, và trong một vài lãnh vực khác.

*************************
Để có thể ứng dụng năng lượng vũ trụ một cách hửu hiệu trong vấn đề trị bệnh cho cá nhân mình, cho người thân hay cho tha nhân, chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của bệnh trạng, hãy tự hỏi: “Bệnh từ đâu mà sanh, và làm sao để tránh ngừa bệnh hoạn?”

Theo nhận định của Thiền sư Tiến sĩ Lê ngọc San, đã phát biểu trên tạp chí Bông Sen như sau : “ Để hiểu Linh Thể là gì, ta cần biết về cấu tạo của thể Phách. Thể Phách gồm có hai phần : Cơ thể và Linh thể. Cơ thể là phần gồm tất cả những cái hữu hình như xương, tim, phổi, gân,cơ bắp, thịt, da,..v.v…Linh thể là phần vô hình, qua nó sanh lực chuyển vận từ ngoài vũ trụ vào hỗ trơ và nuôi cơ thể. Trong trường hợp bình thường, khi con người mạnh khỏe, linh thể thu hút, chuyển vận sanh lực năng ngoài vũ trụ, qua các huyệt điện (luân xa), vào cơ thể một cách điều hòa. Khi một hay nhiều huyệt bị tắc nghẽn, sự chuyển vận cũa sanh lực năng bị chận lại, sức đề kháng của cơ thể sẽ giảm xuống, vi trùng có thể xâm nhập vào cơ thể dễ dàng hơn, và bệnh tật cũng phát tích và phát triển mạnh hơn…”- Linh thể mà Thiền sư Lê ngọc San nói đến chính là Năng Lượng Vũ Trụ.

- Từ lúc sơ sinh đến lúc chết, lúc nào chúng ta cũng tiêu xài điện năng trong bản thể chúng ta, nhiều nhất là lúc chúng ta lo nghĩ. Chúng ta chỉ thu nạp trở lại chút ít năng lượng khi chúng ta ngủ, nhưng nếu chúng ta có nhiều bận tâm hay lo lắng thì bộ não chúng ta vẫn hoạt động và điện năng chúng ta vẫn bị tiêu hao trong lúc ngủ, chính vì thế mà chúng ta cảm thấy uể oải, mệt mỏi khi thức dậy và thường muốn kéo dài thêm giấc ngủ để có thể lấy thêm năng lượng. Khi về tuổi già, vì điện năng trong bản thể không còn được dồi dào nữa, nên các cơ quan bộ phận trong chúng ta bắt đầu vận chuyển sai hoặc bị bế tắc, và sau đó bệnh tật phát sinh. Chúng ta có thể hình dung các bộ phận trong bản thể chúng ta như những cơ quan hay máy móc vật dụng trong nhà hay máy xe hơi, nếu nguồn máy điện chánh không cung cấp cho nhà hay xe chúng ta đủ số lượng điện cần thiết thì những ngọn đèn cũng như các bộ phận máy móc của chúng ta sẽ lu mờ hay chạy rất yếu, và từ từ sẽ dẫn đến sự hư hỏng.

Thiền tịnh là phương pháp giúp chúng ta tập cho bộ não trở về trạng thái tĩnh lặng, trạng thái “KHÔNG” và có như vậy chúng ta mới phục hồi được điện năng bản thể để có được sự quân bình cho thể xác và linh hồn.

- Bệnh cũng từ “TÂM TÁNH” và thói quen mà phát. Tâm buồn phiền, tâm sân hận, tâm chấp trước đố kỵ,…Tánh nóng nẩy, tánh ích kỷ nhỏ nhen, tánh ghen tức,……… Thói quen ăn uống cẩu thả, không đúng giờ giấc, thói quen uống rượu hay hút thuốc nhiều, thói quen thức đêm,……. Tất cả đều là căn nguồn đưa đến bệnh trạng. Thí dụ sau mỗi lần chúng ta sân hay giận, sau một cuộc cải vả, chúng ta đã tự thiêu đốt gần hết năng lực trong bản thể chúng ta, chúng ta cảm thấy mệt nhoài, kiệt sức, nhức đầu, và nhiều khi, có thể đưa đến sự tắc nghẽn hay đứt mạch máu, đem đến cái chết hay liệt thân vì tất cả hệ thống cơ quan trong bản thể đều vận chuyển mất trật tự, nhịp tim của chúng ta bắt đầu đập nhanh hơn lúc thường gấp mấy lần. - Mỗi khi chúng ta ghét một cá nhân nào, chúng ta hay phê phán và ghen tức; trong trường hợp này cũng vậy, chúng ta cũng tự mình tạo nên cảnh hổn loạn, mất trật tự trong bản thể và đem lại sự buồn bã, mất quân bình cho chính chúng ta.

Sau một thời gian Kiên Nhẫn Thiền tập đều đặn, chúng ta sẽ thấy rõ Tâm Tánh cùng những thói hư tật xấu của chính chúng ta cần phải được sửa đổi (tức TU) để đem lại trật tự và quân bình cho bản thể. Chúng ta sẽ yêu thương và quý trọng bản thể chúng ta hơn và cương quyết dẹp bỏ những tư tưởng hay ý nghĩ có thể làm tổn thương đến thân xác của chúng ta. Lần hồi, chúng ta đạt được trạng thái điềm tĩnh, có thể tự chủ và khắc phục được thể xác, không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh và bối cảnh chung quanh, không còn bị ảnh hưởng nhiều về sự bận tâm, lo lắng, nghĩ ngợi và sợ sệt. Chúng ta sẽ cảm thấy thanh nhẹ, thoải mái, và có một cuộc sống bình yên và lành mạnh.

III - PHÁP MÔN NHÂN ĐIỆN THEO KHÍA CẠNH KHOA HỌC

Vì bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên con người chúng ta lúc nào cũng cảm thấy đau khổ. Không gian là giới hạn làm cho chúng ta đau khổ thường xuyên, nhiều và trực tiếp nhất vì chính không gian đã ngăn cách chúng ta không thể thấy nhau, gần nhau và tiếp xúc với nhau… Vào thời xa xưa, vượt không gian để có thể đến gần nhau là cả một vấn đề rất khó giải quyết, chính vì thế mà con người thời đó, với ước mơ làm sao có thể nhìn xa thấy rộng, đi nhanh, với mục đích rút ngắn lại không gian, đã bỏ công sức tu luyện để có được những quyền phép thần thông mà thường được xem cho tới nay là huyền thoại (Thiên Nhĩ Thông, Thiên Nhãn Thông, Tha Tâm Thông, Lậu Tâm Thông….)

Thế giới ngày nay cũng là một thế giới đầy huyền thoại nhưng lại là những huyền thoại đang hiện thể với Internet, World Wide Web. Trong khoảng mênh mông vô tận của không gian, khoa học đã giúp con người có thể gặp gỡ và trao đổi tin tức với nhau trong gang tấc. Việc nghe và thấy xa hàng ngàn dậm không còn là một vấn đề tưởng tượng nữa; Siêu xa lộ thông tin, truyền hình và dữ liệu (data) đã làm cho không gian không còn khả năng “ngàn trùng xa cách” nữa. Ngày nay, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi học hỏi, một đứa trẻ sáu tuổi cũng có “phép thần thông” để vào thế giới của Internet hay World Wide Web. Chúng ta có thể xem Internet, World Wide Web như những phép thần thông hay nói đến thưở xưa : Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ. Hiện nay, khoa học đã và đang tiếp tục phát triển công nghệ truy cập vô tuyến (wireless) từ xa, để giúp cho nhân loại có thể liên lạc với nhau ở tốc độ nhanh hơn và khả năng truyền hửu hiệu cùng ít tốn kém hơn. Khoa học đã hiểu biết xử dụng một số nào những tầng số (frequencies) của vũ trụ để phát và thu sóng tín hiệu trong vấn đề thông tin, nhưng khả năng truyền vẫn còn bị lệ thuộc vào các trạm điện, các trạm modem, các bộ khuếch đại phát lại (repeaters) hay những trạm vệ tinh (satellites)…

Trong vấn đề chữa trị khớp xương gãy, giới khoa học cũng hiểu được tầm quan trọng và cần thiết của tầng số (frequency) trong nguồn năng lượng từ trường được xử dụng trên khớp xương. Sự sai lệch trên tầng số của năng lượng từ trường được xử dụng, dù thật nhỏ, cũng có thể hồi phục hoặc phá tan khớp xương.

Hiện nay, có nhiều căn bệnh mà ngành y khoa, chưa tìm được nguyên nhân hay phương cách để chữa trị. Thí dụ như triệu chứng sụt cân liên tục, ăn ngũ không ngon, đau nhức thân thể và đầu óc căng thẳng; những bệnh nhân với những triệu chứng vừa nêu trên, sau thời gian được khám, thử nghiệm, chụp hình quang tuyến đều được xác định là không có bệnh. Những bệnh nhân đó, sau lần đầu được chữa trị với phương pháp nhân điện, sẽ cảm thấy cơn đau thuyên giảm, đầu óc bớt căng và có một giấc ngũ thật ngon. Chúng ta thử tìm hiểu tại sao có được hiệu quả như vậy : theo Đông y thì cơ thể con người là sự cấu tạo và kết hợp của các phân tử thật nhỏ gọi là Âm và Dương. Các phân tử ấy luân lưu liên tục và tạo ra sự hiện hửu của khí Âm và khí Dương (vì là hơi nên máy quang tuyến không thể nào chụp được và các cuộc thử nghiệm không thể nào thấy được) trong bản thể chúng ta, khi khí âm (lạnh) nhiều hơn khí dương (nóng) thì bản thể chúng ta mất sự quân bình, tạo nên sự co thắt thần kinh hệ cũng như các mạch máu và cơ bắp, khiến cho chúng ta đau nhức tứ chi hay lục phủ ngũ tạng, đầu óc căng cứng, ăn ngũ hời hợt… Khi được truyền nhân điện lần đầu, bệnh nhân lấy lại được phần nào sự quân bình âm dương trong bản thể, thần kinh hệ được thư giãn (từ trường vũ trụ làm tăng khí dương tức khí nóng), giúp cho bệnh nhân có một giấc ngủ say đắm; các mạch máu cũng được mở rộng bình thường trở lại và đem máu huyết đầy đủ đến cho các cơ bắp, lục phủ ngũ tạng cùng tứ chi khiến cho cơn đau giảm bớt. Sau vài lần chữa trị thì bệnh nhân lấy lại được sự quân bình âm dương và căn bệnh biến mất. Chúng ta có thể hình dung các mạch máu chúng ta như những hệ thống ống nước bằng nhựa nhỏ, khi trời lạnh các ống nước ấy sẽ co lại và không cung cấp được đấy đủ nước cho các nơi; khi trời nóng các ống ấy sẽ nở rộng trở lại và sự cung cấp nước sẽ trở lại bình thường.

Nguồn năng lượng từ trường mà chúng tôi, những học viên của ngành Nhân Điện, xử dụng là một nguồn năng lượng “từ trường thiên nhiên” bao la vô tận trong vũ trụ,ï cực kỳ mạnh cũng như thanh nhẹ, siêu tinh vi, với rất nhiều tầng số và trạng thể.

Sau một thời gian thiền tịnh và thực hành, thì dòng điển quang luân lưu trong bản thể của chúng tôi, học viên ngành Nhân Điện, được tăng trưởng và phát quang ra ngoài mạnh hơn; vùng từ trường bao quanh bản thể được nới rộng ra và thanh nhẹ hơn. Nhiều khi bệnh nhân chưa khai bệnh thì chúng tôi đã cảm nhận được chổ đau yếu của bệnh nhân rồi, vì từ trường của chúng tôi đã thu hút từ trường của người bệnh và chổ nào họ đau yếu thì chổ đó, trong bản thể chúng tôi, sẽ phát đau hay thay đổi tầng số. Tiến xa hơn, thì người pháp môn Nhân Điện có thể chẩn đoán được bệnh trạng của bất cứ người nào ở xa (trong hoặc ngoài nước đang cư ngụ) qua cảm nhận trên chính bản thể mình.

Thể nghiệm cá nhân: Một trong những thí dụ điển hình của trường hợp trên là trong một buổi làm việc với anh Tom Bigg, Tổng Giám Đốc Công Ty IT Dynamics, ở Santa Clara, California,USA, thấy anh buồn nên chúng tôi hỏi nguyên nhân, anh ấy cho biết vì bà mẹ anh ấy; vừa nói đến đó, chúng tôi liền nói ngay căn bệnh cùng những triệu chứng trong người bà mẹ anh Tom. Anh ấy rất lấy làm ngạc nhiên và hỏi chúng tôi làm sao biết được đích xác về những triệu chứng ấy mặc dù chưa lần nào gặp mẹ anh và cũng chưa lần nào anh ấy tâm sự về mẹ anh cho chúng tôi nghe. Chúng tôi cho biết nhờ được khai mở luân xa và thiền tập theo phương pháp trường sinh học nhân điện nên chúng tôi có thể có được khả năng trên; chúng tôi giải thích thêm cho anh ấy hiểu là khi anh ấy vừa nghĩ đến bà mẹ thì anh ấy đã câu thông với bà mẹ qua đường giây truyền vô tuyến vô hình, và chúng tôi cũng đã câu thông được với bộ não anh ấy cũng qua hình thức nói trên (bằng Luân xa 6); mẹ anh ấy đau chổ nào thì chúng tôi cảm nhận đau chổ đó, trong bản thể chúng tôi. Chúng tôi cho anh ấy biết sự kiện trên có thể so sánh với mạng Internet hay Wordl Wide Web hiện nay, muốn biết điều gì thì phải nối mạng với một trung tâm chánh và từ đó được chuyển nối đến nơi mình muốn liên lạc, nhưng tốc độ chuyển của bộ não con người nhanh hơn tốc độ ánh sáng, tốc độ nhanh nhất hiện nay của máy vi tính không thể nào sánh kịp.

Có rất nhiều người thân của những học viên đến học với chúng tôi đã được chẩn đoán chính xác các bệnh trạng, mặc dù họ cư ngụ ở cách xa chúng tôi độ vài trăm đến vài ngàn dậm, hay ở một nước khác. Chúng tôi xin nêu ra thêm một vài thí dụ cụ thể khác của khả năng thâu đạt năng lượng và diễn đạt thành hình ảnh :

Một ngày của năm 1994, lúc đó chúng tôi (đã hồn tất lớp 4 năm 1991) đang ở Việt Nam , chúng tôi đến thăm một người bạn. Trong lúc trò chuyện, thì chúng tôi thấy hình ảnh người mẹ của anh bạn, đang cư ngụ ở Washington D.C., Mỹ quốc, phải vào nhà thương, chúng tôi liền nói cho anh ấy biết điều vừa thấy nhưng anh ấy không tin vì không nghe thông báo từ người thân bên Mỹ. Sau khi chúng tôi về được vài tiếng, anh ấy gọi điện thoại lại và cho biết, đúng như chúng tôi thấy, bà cụ anh ấy phải vào nhà thương mổ tim. Độ tháng sau, chúng tôi lại đến thăm anh, và cũng như lần trước, chúng tôi lại thấy mẹ anh vừa bước vào nhà (từ nhà thương về), than nhớ anh ấy và muốn gọi điện thoại về hỏi thăm. Anh bạn chúng tôi nói rằng ít nhất vài tuần nữa mói về nhà vì người thân có báo cách đó vài hôm. Ngay lúc ấy chuông điện thoại reo, và ngoài sức tưởng tượng của anh bạn chúng tôi, mẹ anh ấy đang đầu giây và nói vừa từ nhà thương về, nhớ anh và gọi về hỏi thăm. Sau đó, anh ấy có hỏi chúng tôi là làm sao thấy được như vậy, chúng tôi tạm giải thích là trong những trường hợp trên, mẹ anh ấy nghĩ đến anh rất nhiều và chúng đã thâu nhận được những luồng sóng tư tưởng (thương nhớ) đó và bộ não chúng tôi đã chuyển thành hình ảnh.

Một ngày khác của năm 1995, cũng tại Việt Nam , Mẹ chúng tôi gọi điện thoại cho chúng tôi, từ Mỹ, và buồn bã báo tin rằng Ba chúng tôi bị ung thư sau khi được nhà thương khám nghiệm. Liền ngay lúc ấy, chúng tôi thấy được hình ảnh người khám nghiệm đã lấy nhầm ống thử nghiệm của ngưới khác chứ không phải của Ba chúng tôi. Tôi liền nói lại với Mẹ chúng tôi điều vừa thấy và yêu cầu nên đi xin chổ thử nghiệm xem xét lại. Hai hôm sau, Mẹ chúng tôi báo rằng, đúng như chúng tôi đã nói, họ đã nhận là có sự nhầm lẫn và xin lổi.

Những trường hợp trên giúp cho chúng tôi hiểu thêm sự quan trọng và cần thiết của vấn đề được khai mở các luân xa. Sự khai mở các luân xa giúp cho việc thiền tịnh dễ dàng hơn rất nhiều và việc xoay chuyển luân xa (quay Luân xa) hằng ngày giúp cho chúng ta khai thông và tẩy rửa trược khí của thần kinh hệ chạy từ đỉnh đầu đến dưới chân, dọc theo xương sống.

Một khi từ trường của chúng ta trở nên thanh nhẹ thì chúng ta có thể câu thông được với nhiều tầng số (frequencies) cao hơn hay chấn động lực (vibrations) nhanh hơn. Theo Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng, thì nếu chúng ta kích thích được một vật thể, ở trạng thái vật chất, lên đến vận tốc của ánh sáng thì vật thể này sẽ biến đổi sang thành vật thể năng lượng. Đúng như vậy, nếu chúng tập kích thích các luân xa và các tế bào trong bản thể chúng ta, lên đến vận tốc của ánh sáng hay hơn nữa thì bản thể chúng ta sẽ có một chấn động lực rất mạnh, tạo nên một năng lượng (energy) thật dồi dào. Nguồn năng lượng (energy field) chung quanh chúng ta càng tăng trưởng thì chúng ta có khả năng thu phát được nhiều luồng sóng hay tấng số hơn, cả thấp lẫn cao. Tầng số cao thì chấn động lực cao, tầng số thấp thì chấn động lực thấp. Chúng ta đã có dịp nghe hoặc thấy trên truyền hình hay tận mắt những vị thiền sư ngồi thiền ngoài trời lạnh tuyết rơi với quần áo ẩm ướt, chỉ trong một thời gian ngắn, quần áo của các vị này bốc hơi và khô ráo; điều này không có gì làm lạ nếu chúng ta hiểu được các vị thiền sư đó đã có thể điều khiển được các tế bào của bản thể họ xoay chuyển nhanh hơn hoặc bằng vận tốc ánh sáng, và sự vận chuyển đó đã tạo ra một năng lượng giúp cho họ không thấy lạnh và còn có thể làm khô quần áo ẩm ướt của họ.

Chúng ta hay tự hỏi làm sao họ có thể đạt được khả năng trên? Câu trả lời, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là sự tập luyện cho “Bộ Óc” hay “Bộ Não” (Brain) chú tâm (focus), và thu phát năng lượng. Chúng ta phải biết, “Ý đến đâu thì năng lượng (có khi có được gọi là Điển) đến đó”, điều này chứng tỏ “Năng Lượng của Ý” chúng ta di chuyển nhanh hơn vận tốc của ánh sáng. Nếu chúng ta có thể tập chuyển ý, qua Luân Xa 6, đến một vật thể hay đến các tế bào trong bản thể chúng ta, và điều khiển cho các hạt nhân nguyên tử hay phân tử của vật thể, các tế bào trong bản thể chúng ta xoay chuyển đến một vận tốc nhanh hơn hoặc bằng vận tốc ánh sáng, thì chúng ta có thể biến đổi được trạng thái của vật chất hay của các tế bào trong bản thể chúng ta.

Trong cuốn giảng huấn ở cấp 3, Thầy Lương Minh Đáng có cho biết là: “khả năng bức xạ một trường lực ra môi trường xung quanh mạnh hay yếu tùy theo hệ thần kinh cuả cơ thể Sóng đó được hoàn thiện với mức độ nào. Khi tư tưởng hoàn toàn chuyên chú vào một điểm, toàn bộ hệ thần kinh được huy động vào một việc làm duy nhất, thì cường độ luồng điện năng tạm gọi là NHÂN ĐIỆN trong ta vô cùng lớn lao, nó sẽ tác động và làm biến đổi môi trường xung quanh rất dễ dàng”. Cũng theo Thầy Lương Minh Đáng, “muốn xử dụng được năng lượng hay sức mạnh nguyên thủy ấy một cách mạnh mẽ, thì tinh thần chúng ta phải ở trong tình trạng TRỐNG TRƠN, vì lúc đó hệ thần kinh chúng ta đang ở vị thế chuyển nhất, rất hoàn hảo, sẵn sàng phát ra điện năng với cường độ lớn để thực hiện những gì mà tư tưởng ra lịnh”.

Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng có nêu lên một thí dụ :“Chúng ta sẽ đưa ra công thức, làm thế nào để chuyển một ly nhựa biến thành một ly thủy tinh”. Theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi thì khi chúng ta có thể chuyển năng lượng, từ luân xa 6, và điều khiển cho các hạt phân tử của ly nhựa vận chuyển đến vận tốc nhanh hơn hoặc bằng vận tốc của ánh sáng thì ly nhựa sẽ dần dần biến đổi từ trạng thể vật chất (matter) sang thành vật thể năng lượng (energy). Ngay ở thời điểm biến thể này, nếu chúng ta chuyển ý, đổi những đặc tính của trạng thể nhựa thành thủy tinh vào, và sau đó giảm từ từ vận tốc hoạt động của quang tử để đưa về trạng thái vật chất, thì chúng ta sẽ có một ly thủy tinh.

Có thể những người xưa cổ của nền văn minh Ai Cập và của nền văn minh Chùa Tháp (Cambodge) đã xử dụng thể thức trên để xây những Kim Tự Tháp và Đế Thiên Đế Thích chăng ? Phải chăng họ đã biết xử dụng Năng Lượng Vũ Trụ để phục vụ cho dân tộc của họ trong mọi lãnh vực? Phải chăng chỉ cần nghĩ đến là liền tức khắc họ có được những gì họ muốn?

Theo chúng tôi nghĩ, mặc dù nền khoa học hiện nay đã tiến bộ vượt bực, đang trên đường phát triển nghiên cứu chế ráp những người máy (robot) tinh vi để phụ giúp và thay thế con người trên nhiều lãnh vực, nhưng vẫn không thể nào vượt qua được khả năng tinh vi của “Bộ Não” con người. Bộ máy vi tính hay điện toán mà hiện nay thế giới đang bị lệ thuộc vào chỉ là một sự sao chép (copy) thô sơ cơ cấu tinh vi của con người. Mặc dù phần tốc độ xử lý của máy điện toán hiện nay đã được nâng cao nhưng cũng không thể nào sánh kịp với tốc độ “chuyển ý” hay “chuyển sóng” của con người (nhanh hơn tốc độ ánh sáng).

Máy điện toán mà nhiễm vi khuẩn (virus) thì bộ nhớ dễ bị xóa và phần xử lý cũng hay bị treo (hang); con người mà nhiều “lo lắng, nghĩ ngợi, sợ sệt” thì dễ mất quân bình, khiến cho hệ thống miễn nhiễm suy yếu, vi trùng dễ xâm nhập dẫn đến bệnh hoạn hoặc cái chết. Máy điện toán thì tùy thuộc vào điện năng gia dụng còn điện năng con người thì tùy thuộc vào năng lượng bản thể. Cả hai loại điện năng trên mà suy giảm thì tất cả hai hệ thống đều đi đến chổ bế tắc; nhưng tất cả các loại năng lượng trong vũ trụ đều tùy thuộc vào “một nguồn năng lượng duy nhất” mà Thầy Lương Minh Đáng tạm gọi là “ NGUỒN ĐIỆN NĂNG SINH HỌC ”.

IV - PHÁP MÔN NHÂN ĐIỆN THEO KHÍA CẠNH TÂM LINH

Pháp môn TRƯỜNG SINH HỌC NHÂN ĐIỆN do Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng hướng dẫn là một phương pháp THỞ và THIỀN ĐỊNH rất đơn giản, thích hợp cho mọi tuổi, mọi giới, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, chủng tộc… Qua pháp môn nói trên,Thầy Đáng dạy cho chúng tôi tập biết tự chủ thể xác, biết khắc phục bản ngã của chính chúng tôi và biết chiến thắng sự sợ sệt trong tâm hồn.

Thầy trao cho chúng tôi một phương pháp Thiền Định đơn sơ nhưng SIÊU VIỆT để vừa trị bệnh vừa sửa mình, tức TU THÂN.

Cổ nhân của chúng tôi đã đặt vấn đề Tu Thân lên hàng đầu : “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”, họ đã biết lấy khuôn vàng thước ngọc : TU – TỀ – TRỊ – BÌNH làm kim chỉ nam cho đấng trượng phu.

Theo Nho ngữ, thì con người được gọi là Nhơn và được viết như sau ( ), gồm 2 gạch, một trái và một phải. Hai gạch đó, một ngắn một dài có thể tượng trưng cho một Âm một Dương, nhưng vì mới tụ cho nên chỉ có giao ở một đầu mà thôi. Theo chúng tôi hiểu thì cổ nhân của chúng tôi, khi viết chữ Nhơn, đã muốn nói lên con người là sự giao hội của hai luồng điện âm và dương của vũ trụ. Nói theo cái thể thì con người cũng cùng một cấu tạo với vũ trụ cho nên cũng phải tiến hóa không ngừng, còn nhìn theo cái tướng thì một bên tả và một bên hữu là một Thanh một Trược, một Chánh một Tà, một Phải một Trái, một Trắng một Đen, một Phản một Phục, một Tiểu Nhơn một Quân Tử đều có cả. Như vậy không trách gì con người dễ lầm lạc, cho nên quay trở lại thì nhu cầu Tu Học là cần thiết để trui rèn cái CHƠN TÂM nhằm phát triển nhơn thân và nhơn tâm cho đồng đều mói có ích lợi cho nhân quần xã-hội. Tập cho cái TÂM trở về Trung Dung và phát triển Nhân Tánh đến chổ Hoàn Mỹ thì gọi là Tu Thân được viết bằng chữ nho như sau : ( ).

Chữ TU ( ) mà Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng muốn đề cập đến không có ý nghĩa là phải trở thành tu sĩ, dâng trọn đời cho Chúa hay là phải xuất gia, trì trai giữ giới, cũng chẳng phải tu Tiên luyện đơn hay xuất hồn đi học Đạo cõi này cõi kia. Thầy Đã giúp cho chúng tôi hiểu được là việc TU ( ) phải do tự ý con người chuyển mình đứng dậy theo một con đường ngược ( , chữ nhơn viết đứng lên), thì sự văn vẻ ( , chữ văn ) tốt đẹp sẽ nổi bật lên và hiện rõ trên tất cả.

Chữ Thân được viết thêm cạnh chữ Tu với ý nghĩa là tu thân sao cho thân xác mạnh khỏe vì “một tâm hồn minh mẫn chỉ có trong một thân thể tráng kiện”. Tu là tu bổ những gì thiếu sót và sửa chữa những gì sai lầm hay thoái hóa như quá động loạn, hung dữ, say mê tửu sắc và những thú vui trác tán… Thân xác có mạnh thì tâm mới an tịnh. Thân tâm hòa hợp thì sẽ cảm thấy vui tươi.

Tu là sửa chữa cả Chơn Hồn lẫn Phàm Xác, có như vậy thì Tuệ Giác mới phát triển và thân xác mới thăng hoa, không để cho thân xác quá lệ thuộc vào vật chất. Phần đông trong chúng ta, chỉ chủ trương phát triển cái phàm tâm, phàm trí cùng xác thân mà quên đi cái phần cao quý nhất trong con người, ấy là Chơn Tâm, Chơn Thức. Cái thân xác thường bị cái Tâm làm chủ vì “Vạn Sự tại Tâm”, cho nên cái gốc là Tu Tâm. Phải gội rửa từ cái phàm tâm sang cái chơn tâm cho cái Tiềm Thức sống dậy. Người tu học luôn luôn phải phát triển cái tiềm thức, khui cái tiềm thức của mình ra để nhìn thấy được những điều sái quấy mà mình đã tạo ra, những điều phát nguyện mà mình đã hứa thực hiện nhưng vì sương gió bụi trần mà quên lời thề xưa, để không còn bị lầm lạc nữa.

Khi cái Tâm đã được sửa, không lẽ bỏ cái Thân? Muốn đạt Thân Pháp tất nhiên phải có một Phương Pháp Công Phu để tập luyện rõ ràng và hợp với thời đại của xã-hội động loạn này. Hãy nhìn Đời như một Trường Tiến Hóa, Thế Gian là một Trường Thi giúp cho chúng ta học hỏi để trở về nguồn cội xum họp với Cha Mẹ Nguyên Thủy, để xum họp với Thượng Đế. Chúng ta là Tiểu Linh Quang của Cha trời mẹ Đất chuyển hóa ra muôn hình vạn trạng (Nhất Bổn Tán Vạn Thù) và trường tồn vĩnh cửu. Chúng ta hãy thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau, để cùng nhau hợp thành một sức mạnh vô biên, phá tan bức màn u tối lúc nào cũng trực chờ che phủ Chơn Tánh của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng sống trong sự tỉnh thức để ý thức được “mình là ai ?” và tìm hiểu xem “mục đích sự hiện hửu của mình trong cõi này là gì ?”. – Mình là Tình Thương của Thượng Đế, mình là Hàn Gắn, là Xây Dựng, là Đùm Bọc, là Tha Thứ, là một Khối Đại Linh Quang phân ly nay họp lại (Vạn Thù Quy Nhất Bổn). Mình là Thanh Quang Điển Lành, phải biết sống cho Tha Nhân, phải biết hy sinh cho người.

Đừng tu thành Tiên thành Phật một mình theo lối ích kỷ xa xưa mà để cho đa số bị sa đọa. Xã hội loài người phải do con người kiến tạo, xây dựng cho nó đẹp đẽ lên để cùng sống trong hòa bình thịnh vượng. Chúng ta hãy ý thức trách nhiệm, cùng nắm tay nhau đứng ra xây dựng lại một Thế Giới Văn Minh hơn, một Thế Giới Đại Đồng. Muốn làm được việc đó, chúng ta hãy dũng mãnh đứng lên xây dựng cho mình có đủ BI - TRÍ - DŨNG. Chúng ta không cần tu cao để về Niết Bàn hay Thiên Đàng xa xôi, mà chúng ta hãy tu tâm sửa tánh sao cho xứng đáng một người anh, một người chị, cha mẹ….biết sống cho tình thương và đạo đức. MẶC ÁO ĐỜI mà tu cho cái Thân, cái Tâm, cái Ý đồng nhất với nhau thì chúng ta sẽ có một Xã - Hội Đại Đồng.

TU THÂN là một vấn đề tuy nhỏ mà to, tuy dễ mà khó. Nhưng dù dễ hay khó thì đó là công việc chúng ta phải thực hiện. Có tự sửa chữa được thì mới ảnh hưởng người chung quanh được. Người người giống nhau, nhà nhà giống nhau thì sẽ không còn hận thù chiến tranh sát hại nhau nữa.

Thầy Lương Minh Đáng có nói : “Chỉ có con người mới giúp được con người”, thật đúng vậy, xã-hội con người phải do chính con người đồng tâm xây dựng lại thì máu và nước mắt sẽ ngưng rơi. Con người chưa biết thương chính mình, thương cái Chơn Tánh hiền hòa xa xưa, thì sẽ không biết thương lẫn nhau. Chúng tôi còn nhớ câu Ca-Dao:“Thương Người Như Thể Thương Thân”, vậy mà có bao giờ chúng ta suy tư thế nào là thương thân đâu. Nếu biết thương thân thì chúng ta đâu có uống rượu cho đến cháy gan, hút thuốc cho đến hư phổi, cờ bạc trác tán cho đến cửa nhà nát tan, ghen tức giận hờn cho đến mất ăn mất ngủ….v.v.

Sau khi được khai mở Luân Xa và thực hiện Công Phu, Công Quả, Công Trình qua phương pháp Trường sinh Học Nhân Điện do Thầy Lương Minh Đáng hướng dẫn, chúng tôi đã ngộ được CHÂN LÝ TỐI THƯỢNG của THƯỢNG ĐẾ, chính là Tình Thương Chơn Thật. Gọi chơn là vì đây chính là tình thương của Chơn Hồn, của Siêu Giác; gọi thật là vì không có giả tạm, là một thứ tình thương đời đời, không vụ lợi. Từ lâu rồi, con người chỉ biết tôn kính Tiên, Thần, Phật, Chúa chứ không biết kính trọng lẫn nhau, chính là vì không biết phần cao quí ở bên trong mỗi con người chúng ta.

Chúng tôi thiết nghĩ ai cũng muốn thấy được cái Chơn Tâm của mình, vì nguyên thủy chúng ta từ nơi thanh nhẹ mà đi xuống. Muốn có điều đó thì chúng ta phải có một phương pháp luyện tập để trau chuốt cái Tâm, sửa chữa cái thân, minh tâm kiến tánh để làm lợi cho mình và cho người.

Cái hay, cái quí được thể hiện trong Phương Pháp Trường Sinh Học Nhân Điện do Thầy Lương Minh Đáng hướng dẫn là chỗ giúp cho chúng ta thực hành để tìm ra Đức Tin, chứ Thầy Đáng không bảo tin nơi Thầy, cũng không bắt chúng ta thờ lạy ai cả. Đây là một trong những phương pháp Tự Cách Mạng Bản Thân, Cách Mạng Tâm Linh, đưa Đạo pháp vào đời để xây dựng nhơn sinh. Không còn xuất thế ra đi mà phải nhập thế để hành Bồ Tát Đạo. Đây cũng là một phương pháp “đốt giai đoạn” vì từ xưa cho tới nay chưa có một vị Minh Sư nào có thể mở 6 Luân xa cho chúng ta trong một thời gian thật ngắn, nhằm mục đích đào luyện gấp rút một số Huấn Luyện Viên, phát triển về Y-Học, Đạo-Học và Khoa-Học cùng một lúc, có khả năng giúp đỡ cho tha nhơn mà vẫn an toàn cho bản thân trước màn Tà khí dầy đặc.

V - KẾT LUẬN

Phương pháp trị bệnh bằng Trường Sinh Học còn gọi là Nhân Điện do Thầy tiến Sĩ Lương Minh Đáng hướng dẫn trong nhiều năm qua, đã đem lại nhiều thành quả khích lệ cho nhiều bệnh nhân trên năm Châu. Nhiều căn bệnh khó khăn mà nền y-khoa chưa có được phương pháp trị liệu hiệu nghiệm, đã được những môn sinh của nghành Nhân Điện chận đứng và chữa trị hiệu quả, giúp cho các bệânh nhân được trở lại bình thường.

Hiện nay, chúng ta đang sống trong một xã-hội nhiều động loạn khiến cho bệnh trạng cũng dễ dàng phát sinh. Người thời nay đợi đến khi trong mình đau nhức mới cho là bệnh mà không rõ xét nguyên nhân của nó phát ra. Chúng ta phải hiểu rằng chỉ vì vọng tưởng mà sinh ra phiền não, khiến cho tâm bị thương tổn. Tâm bị thương thì không dưỡng được tì (bao tử và lá lách) cho nên biếng ăn. Tì hư thì khí ở trong phổi kém nên mới sanh ra ho hen hay mất ăn mất ngủ. Vì tì hư, thủy khí giảm, làm cho khí không sung mãn, gân cốt bại hoại. Ngũ hành đã mất trật tự từ đó.

Đông y quan niệm bệnh là do cơ thể mất quân bình Âm và Dương, hay nhơn điện tức phần năng lực của con người. Hệ thống miễn nhiễm từ đó bị suy thoái và vi trùng xâm nhập dễ dàng. Sự mất quân bình là do:

•Thất Tình (bên trong): Buồn, Giận, Lo, Hoảng, Mừng, Nghĩ, Sợ từ trong con người làm cho cơ thể thoái hóa. Sự buồn khổ, giận hờn, hốt hoảng, lo lắng, vui mừng, nghĩ ngợi, sợ sệt nhiếu tạo cho thần kinh khối óc bấn loạn, kéo theo nhịp đập thay đổi của con tim, khiến máu huyết không nuôi cơ thể ngũ tạng đúng lúc, đầy đủ và đúng chổ và từ đó bệnh phát sanh.
•Lục Dục (bên ngoài): Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa (Gió, lạnh, nóng, ẩm ướt, khô khan, lửa đốt) là sáu thứ kích thích từ bên ngoài làm cho bản thể thay đổi năng lượng quá đột ngột, khiến cho thần kinh hệ không phản ứng kịp thời và từ đó bệnh cũng phát sanh.
Sau khi đã đượïc khai mở 6 Luân Xa, chúng tôi, những môn sinh của Ngành Nhân Điện có được khả năng thu hút Năng Lượng Vũ Trụ vào bản thể để tự trị bệnh cho chính mình và cho những người khác. Chúng tôi hoàn toàn không dùng y dược liệu, không châm cứu hay giãi phẩu, mà chỉ dùng đôi bàn tay nhỏ bé để truyền nhân điện (năng lượng tình thương) qua người bệnh, giúp cho họ được khai thông kinh mạch, tạo cho thần kinh hệ và tế bào của họ kích thích hoạt động trở lại bình thường thì cơn bệnh sẽ dần dần dứt hẳn.

Pháp môn Nhân Điện do Thầy Tiến Sĩ Lương Minh Đáng hướng dẫn là một pháp môn lấy cá nhân ra để học hỏi nghiên cứu, lấy chính chúng ta ra thí nghiệm và thực hành. Sau một thời gian ngắn Thiền Tịnh - Tu Hành, chúng ta đạt sẽ được:

•Sự điềm tĩnh trước mọi hoàn cảnh
•Một Đức Tin nơi chính mình
•Một Tâm thanh thản và Nhân Từ
Đây là một phương pháp Yoga đủ sức giúp chúng ta phát triển cả hai phương diện Thân và Tâm cùng một lúc và lại hợp với hoàn cảnh khó khăn hiện tại.

Ngoài khả năng giúp đỡ mọi người hết đau hết bệnh, những môn sinh ngành Nhân Điện còn có thể đóng góp rất nhiều trong tương lai, trên mọi lãnh vực, để cùng nhau xây dựng một Thế Giới Đại Đồng mà trong đó mọi người sẽ thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.





















DasiraNaradaVN

http://blog.yume.vn/xem-blog/nhan-dien-that-nhan-dien-gia.sg9x.35D093E0.html